Thực tiễn áp dụng giấy uỷ quyền ở Việt Nam hiện nay

Bản chất pháp lý, quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng giấy ủy quyền ở Việt Nam hiện nay. Mời các bạn cùng Luật Việt Hùng theo dõi bài viết dưới đây nhé!

Ủy quyền, bản chất pháp lý của giấy ủy quyền và các quy định liên quan

Quy định của pháp luật về ủy quyền

Ủy quyền được quy định tại Điều 138 Bộ luật dân sự năm 2015 về đại diện theo ủy quyền như sau:

 “1. Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

  1. Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.
  2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện”.





Trong đó, theo Điều 101 Bộ luật dân sự năm 2015 thì trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Khi có sự thay đổi người đại diện thì phải thông báo cho bên tham gia quan hệ dân sự biết. Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên khác ủy quyền làm người đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện. Việc xác định chủ thể của quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình sử dụng đất được thực hiện theo quy định của Luật đất đai.

Đối với cá nhân, bên ủy quyền và bên được ủy quyền phải có năng lực hành vi dân sự. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện.

Thời hạn ủy quyền do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định; nếu không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực 01 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền (Điều 563 Bộ luật dân sự năm 2015).

Bên được ủy quyền được ủy quyền lại cho người khác trong trường hợp có sự đồng ý của bên ủy quyền; Do sự kiện bất khả kháng nếu không áp dụng ủy quyền lại thì mục đích xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vì lợi ích của người ủy quyền không thể thực hiện được. Việc ủy quyền lại không được vượt quá phạm vi ủy quyền ban đầu. Hình thức hợp đồng ủy quyền lại phải phù hợp với hình thức ủy quyền ban đầu (Điều 564 Bộ luật dân sự năm 2015).

Bộ luật Dân sự 2015 không quy định về hình thức Giấy ủy quyền. Tuy nhiên, Giấy ủy quyền lại được ghi nhận trên thực tế và tại nhiều văn bản khác, như: Điều 107 Luật Sở hữu trí tuệ 2005:

“1. Việc uỷ quyền tiến hành các thủ tục liên quan đến việc xác lập, duy trì, gia hạn, sửa đổi, chấm dứt, huỷ bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ phải được lập thành giấy uỷ quyền.

  1. Giấy uỷ quyền phải có các nội dung chủ yếu sau đây:
  2. a) Tên, địa chỉ đầy đủ của bên uỷ quyền và bên được uỷ quyền;
  3. b) Phạm vi uỷ quyền;
  4. c) Thời hạn uỷ quyền;
  5. d) Ngày lập giấy uỷ quyền;

đ) Chữ ký, con dấu (nếu có) của bên uỷ quyền.

  1. Giấy uỷ quyền không có thời hạn uỷ quyền được coi là có hiệu lực vô thời hạn và chỉ chấm dứt hiệu lực khi bên uỷ quyền tuyên bố chấm dứt uỷ quyền”.

Hay tại khoản 19 Điều 20 Thông tư số 58/2020/TT-BCA ngày 16 tháng 6 năm 2020  của Bộ Công an  quy định về quy trình cấp, thu hồi đăng ký, biển số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, quy định về giải quyết một số trường hợp khi đăng ký, cấp biển số xe, trong đó xe là tài sản chung của vợ chồng: “a) Chủ xe tự nguyện khai là tài sản chung của vợ chồng, phải ghi đầy đủ họ, tên và chữ ký của vợ, chồng trong giấy khai đăng ký xe; trường hợp xe thuộc tài sản chung của vợ chồng đã đăng ký đứng tên một người, nay có nhu cầu đăng ký xe là tài sản chung của hai vợ chồng: Giấy khai đăng ký xe, có chữ ký của hai vợ chồng thì cơ quan đăng ký xe thu lại giấy chứng nhận đăng ký xe cũ, cấp giấy chứng nhận đăng ký xe mới; b) Xe của đồng sở hữu khi bán, cho, tặng phải có đủ chữ ký hoặc giấy ủy quyền bán thay của các chủ sở hữu”.

Như vậy, hình thức ủy quyền được thể hiện dưới hai hình thức: Hợp đồng ủy quyền và Giấy ủy quyền theo quy định của pháp luật hoặc do các bên thỏa thuận.

Giấy ủy quyền và vản chất pháp lý của giấy ủy quyền

Theo quy định của pháp luật thì hình thức của Hợp đồng ủy quyền có thể bằng lời nói, hành vi, văn bản (có công chứng, chứng thực, đăng ký). Tương ứng với từng loại việc thì hợp đồng ủy quyền mà hợp đồng ủy quyền có thể được thể hiện bằng dưới hình thức khác nhau. Việc xác định hình thức của hợp đồng ủy quyền căn cứ vào quy định của pháp luật, công việc ủy quyền và những giao dịch mà người được ủy quyền xác lập với người thứ ba. Thực tiễn hoạt động công chứng, chứng thực, công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực thường bắt gặp hai hình thức văn bản uỷ quyền đó là “Giấy uỷ quyền” và “Hợp đồng uỷ quyền”.

Trước đây, theo quy định của Nghị Định 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực quy định: Nếu việc uỷ quyền có thù lao, hay việc uỷ quyền để chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản thì phải lập thành hợp đồng, còn những trường hợp khác có thể lập giấy uỷ quyền. Từ ngày 01-7-2007, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08-12-2000 không còn hiệu lực thay vào đó là Luật Công chứng và Nghị định 79/2007/NĐCP ngày 18-5-2007 của Chính phủ quy định về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Theo hai văn bản pháp luật trên, tổ chức Công chứng và UBND xã, phường, thị trấn, cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ở nước ngoài có thẩm quyền công chứng, chứng thực chữ ký. Hai văn bản này không quy định việc uỷ quyền phải lập thành hợp đồng uỷ quyền hay giấy uỷ quyền; do đó, các bên tham gia giao kết hợp đồng có thể tự thoả thuận về hình thức của văn bản. Điều 48 của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP quy định:

Điều 48. Công chứng, chứng thực hợp đồng uỷ quyền, giấy uỷ quyền

  1. Việc Uỷ quyền có thù lao, có nghĩa vụ bồi thường của bên được uỷ quyền hoặc để chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản phải được lập thành hợp đồng.

Trong trường hợp bên uỷ quyền và bên được uỷ quyền không thể cùng đến một cơ quan nhà nước có thẩm quyền công chứng, chứng thực, thì bên Uỷ quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công chứng, chứng thực nơi thường trú hoặc tạm trú có thời hạn của họ công chứng, chứng thực hợp đồng Uỷ quyền; bên được uỷ quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công chứng, chứng thực nơi họ thường trú hoặc tạm trú có thời hạn công chứng, chứng thực tiếp vào bản gốc hợp đồng Uỷ quyền này, hoàn tất thủ tục công chứng, chứng thực hợp đồng uỷ quyền.

  1. Việc uỷ quyền không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì không phải lập thành hợp đồng Uỷ quyền mà có thể được lập thành giấy Uỷ quyền và chỉ cần người Uỷ quyền ký vào giấy Uỷ quyền.”

Sau này, nội dung chứng nhận đối với loại “Giấy ủy quyền” được gián tiếp đề cập đến khi Khoản 1 Điều 18 Nghị định số 04/2013/NĐ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật công chứng 2006 quy định: “Việc ủy quyền có thù lao, có nghĩa vụ bồi thường của bên được ủy quyền hoặc để chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản phải được lập thành hợp đồng ủy quyền”.

Có thể thấy Hợp đồng uỷ quyền và giấy uỷ quyền về bản chất không khác nhau, nếu có chăng chỉ khác nhau về hình thức của văn bản. Hợp đồng uỷ quyền sẽ có hiệu lực ngay sau khi các bên ký vào bản hợp đồng, còn giấy uỷ quyền thực ra chỉ bắt đầu có hiệu lực khi người được uỷ quyền thực hiện công việc. Thực chất giấy uỷ quyền là văn bản xác nhận thẩm quyền của người đại diện của người được uỷ quyền. Như vậy, trong trường hợp hợp đồng uỷ quyền được thể hiện bằng lời nói, giấy uỷ quyền thường được cấp cho người được uỷ quyền sau khi hợp đồng uỷ quyền đã được giao kết. Về mặt hình thức giấy uỷ quyền luôn luôn bằng văn bản. Pháp luật của Việt Nam chưa đề cập đến vấn đề này; do vậy, thực tiễn việc xác định trong trường hợp nào là hợp đồng ủy quyền trong trường hợp nào là giấy ủy quyền rất khác nhau.

Thực tiễn sử dụng Giấy ủy quyền ở Việt Nam hiện nay

Giao dịch ủy quyền cũng như các giao dịch dân sự khác, được xác lập bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó thể hiện rõ nhất ý chí của hai bên nếu như hai bên thảo luận, thương lượng về các điều khoản của giao dịch ủy quyền và tiến tới trực tiếp ký kết với nhau một văn bản (thông thường văn bản này được gọi tên là “Hợp đồng ủy quyền”). Trong thực tế, có rất nhiều trường hợp Bên ủy quyền chọn phương án tự mình lập một văn bản mà không có sự tham gia ký kết của Bên được ủy quyền (thông thường dạng văn bản chỉ có bên ủy quyền ký thể hiện ý chí này được đặt tên là “Giấy ủy quyền”, cũng có thể đặt tên chung chung là “Văn bản ủy quyền”).




Hiện nay có nhiều ý kiến trái chiều liên quan đến 2 loại văn bản ủy quyền là “Hợp đồng ủy quyền” và “Giấy ủy quyền”, nên cần nêu rõ một thực tế “Giấy ủy quyền” vẫn thường xuyên được Tòa án nhân dân các cấp chấp thuận trong qui trình tố tụng. Thông thường Bên được ủy quyền sẽ được yêu cầu ký vào “Giấy ủy quyền” để thể hiện là đồng ý nhận ủy quyền, chữ ký của Bên được ủy quyền trước sự chứng kiến của thẩm phán hay thư ký tòa án cùng nhiều nghiệp vụ hồ sơ khác trong quá trình tố tụng sẽ giúp nâng cao tính xác thực của giao dịch ủy quyền.

Tương tự như vậy, trường hợp nội dung ủy quyền là thực hiện các thủ tục hành chính (như đi nhận văn bằng/chứng chỉ tốt nghiệp các cơ sở đào tạo, làm thủ tục yêu cầu trích lục hồ sơ hộ tịch như khai sinh, khai tử,… hay làm thủ tục yêu cầu cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân,…). Bản thân việc Bên được ủy quyền thực hiện các công việc ủy quyền đó  là chứng cứ thể hiện ý chí của Bên được ủy quyền đối với giao dịch ủy quyền (điều này có thể chứng minh được bằng chữ ký của Bên được ủy quyền tại “Giấy ủy quyền” mà cơ quan giải quyết hồ sơ có thể yêu cầu Bên được ủy quyền ký vào, và ngay cả trong trường hợp không có chữ ký của Bên được ủy quyền tại “Giấy ủy quyền” thì việc Bên được ủy quyền ký vào các tờ khai, cam kết, ký nhận kết quả giải quyết hồ sơ,…).

Việc ủy quyền sẽ được cơ quan nhà nước chứng thực theo quy định tại Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch quy định “Chứng thực chữ ký trong Giấy ủy quyền đối với trường hợp ủy quyền không có thù lao, không có nghĩa vụ bồi thường của bên được ủy quyền và không liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng bất động sản” (điểm d khoản 4 Điều 24). Điều 14 Thông tư số 01/2020/TT-BTP ngày 02/3/2020 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP, quy định chứng thực chữ ký trên Giấy ủy quyền theo quy định tại khoản 4 Điều 24 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP. Theo đó việc chứng thực chữ ký trên giấy ủy quyền sẽ được áp dụng với các trường hợp như:

– Ủy quyền về việc nộp hộ, nhận hộ hồ sơ, giấy tờ, trừ trường hợp pháp luật quy định không được ủy quyền;

– Ủy quyền nhận hộ lương hưu, bưu phẩm, trợ cấp, phụ cấp;

– Ủy quyền nhờ trông nom nhà cửa;

– Ủy quyền của thành viên hộ gia đình để vay vốn tại Ngân hàng chính sách xã hội.

Giấy ủy quyền sẽ phải thỏa mãn đầy đủ các điều kiện như không có thù lao, không có nghĩa vụ bồi thường của bên được ủy quyền và không liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng bất động sản thì được thực hiện dưới hình thức chứng thực chữ ký trên giấy ủy quyền.

Nếu việc ủy quyền không thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 14 Thông tư số 01/2020/TT-BTP thì không được yêu cầu chứng thực chữ ký trên giấy ủy quyền; người yêu cầu chứng thực phải thực hiện các thủ tục theo quy định về chứng thực hợp đồng, giao dịch.

Sự khác nhau giữa Giấy uỷ quyền và Hợp đồng ủy quyền

Nội dung Giấy ủy quyền Hợp đồng ủy quyền
Chủ thể Giấy ủy quyền được thành lập và ký bởi người ủy quyền. Hợp đồng ủy quyền được lập và ký bởi hai bên là người ủy quyền và người được ủy quyền
Ủy quyền lại Giấy ủy quyền thì người người được ủy quyền không được ủy quyền lại, trừ trường hợp pháp luật có quy định. Hợp đồng ủy quyền thì bên được ủy quyền chỉ được ủy quyền lại cho người thứ ba nếu được bên ủy quyền đồng ý hoặc pháp luật có quy định khác.
Thời hạn ủy quyền Giấy ủy quyền: Thời hạn ủy quyền do Người ủy quyền quy định hoặc do pháp luật quy định. Hợp đồng ủy quyền: Thời hạn uỷ quyền do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định; nếu không có thoả thuận và pháp luật không có quy định thì hợp đồng uỷ quyền có hiệu lực một năm, kể từ ngày xác lập việc uỷ quyền.
Quyền và nghĩa vụ của các bên Giấy ủy quyền không có quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên. Hợp đồng ủy quyền có quy định quyền và nghĩa vụ của các bên.

 

Đơn phương chấm dứt thực hiện ủy quyền Sau khi Giấy ủy quyền được lập mà bên nhận ủy quyền không thực hiện công việc thì bên ủy quyền cũng không có quyền yêu cầu bên nhận ủy quyền phải thực hiện, kể cả việc bồi thường thiệt hại. Hợp đồng ủy quyền: Hợp đồng ủy quyền quy định rõ ràng về nghĩa vụ của bên được ủy quyền, và nếu có thiệt hại thì phải bồi thường nếu đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền.

Chúng tôi cung cấp dịch vụ soạn thảo giấy ủy quyền, văn bản ủy quyền và các thủ tục đảm bảo ủy quyền đúng quy định của pháp luật. Hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn trực tiếp!

Công ty Luật Việt Hùng:

Địa chỉ: Số 06 ngách 43 ngõ 40 Tô Vĩnh Diện, Khương Trung, Thanh Xuân, Hà Nội

Điện thoại: 0382353418

Email: hieubietphapluat.lienhe@gmail.com

Tra cứu văn bản pháp luật: Tại đây

Tham khảo các bài viết khác: Tại đây

Tham khảo dịch vụ của chúng tôi: Tại đây

5/5 - (1 bình chọn)
# Bài liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon